Mặt trời gay gắt như nung chảy mặt đất, liên tục hai mươi ngày một giọt mưa, con suối duy nhất cấp nước cho thôn Đào Nguyên cạn khô, những viên đá cuội lòng suối phơi trắng hếu, nóng bỏng đến mức giẫm lên thể lột da.
Lý Kiều Kiều gốc hòe cổ thụ ở đầu làng, những thửa ruộng nứt nẻ thể nhét ngón tay ở đằng xa, hàng lông mày nhíu chặt . Những cây ngô trong ruộng héo úa, lá cuộn tròn như ống tre. Mấy ngày đậu còn miễn cưỡng chống chịu , giờ cũng bắt đầu vàng úa từng mảng. Các thôn dân xổm bờ ruộng, cây trồng mà thở dài than vãn, ngay cả tiếng hò reo thường ngày trong xưởng cũng yếu ớt nhiều.
“Kiều Kiều nha đầu, nếu cứ hạn hán thế , đừng là lương thực vụ thu, nước để nhuộm vải trong xưởng của chúng cũng sắp đủ .” Lão thợ mộc chú Chu vác cái búa tới, khuôn mặt đen sạm đầy vẻ sầu muộn, “Ta tìm ở hậu sơn ba , mấy cái mạch nước ngầm đều cạn khô cả .”
Lý Kiều Kiều gật đầu, đầu ngón tay vô thức vuốt ve chuỗi hạt đào đeo ở eo – đây là do nàng tự tay cho các cụ già và thợ thủ công trong làng vụ mùa bội thu năm ngoái. Nàng nhắm mắt , hít một thật sâu khí nóng bức mang theo mùi đất, tập trung tinh thần chìm thức hải.
Vầng sáng "Đào Nguyên Truyền Thừa" lấp lánh trong thức hải, theo ý niệm của nàng thúc đẩy, các chương về "thủy lợi", "tìm kiếm nguồn nước" dần trở nên rõ ràng. Khác với những biểu đồ kỹ thuật cụ thể đây, thuật tìm nước giống như một sự "cảm nhận" chỉ dẫn: thế nào để thông qua địa hình, t.h.ả.m thực vật, sự đổi vi tế của đất đai mà phán đoán hướng của nguồn nước ngầm, thế nào để nhận loại "thủy mạch thảo" đặc biệt, gốc rễ ba thước của nó nhất định nguồn nước nông, và điều quan trọng nhất – "phép gõ đất tiếng", dùng một chiếc búa gỗ đặc biệt gõ xuống đất, thông qua tiếng vọng trong và đục mà phán đoán lòng đất nước .
“Chú Chu, ngài giúp chuẩn ba thứ .” Lý Kiều Kiều mở mắt, ánh mắt trở nên kiên định trở , “Một cây gỗ thanh cương dài ba thước, gọt thành đầu búa, đó tìm ít dây thừng gai và ngải cứu khô, cuối cùng, kêu tập trung tất cả bát sành trong nhà , càng lớn càng dày càng .”
Chú Chu tuy nàng định gì, nhưng thấy nàng tự tin như , lập tức sắp xếp. Nửa khắc , thứ chuẩn xong, dân làng cũng vây quanh, ngay cả những ban nãy còn xổm bờ ruộng thở dài cũng xúm , trong mắt mang theo một tia hy vọng.
Lý Kiều Kiều tiên cầm bó ngải cứu lên, chia cho mấy trẻ tuổi bên cạnh: "Các con đến sườn đồi phía đông, phía tây làng và hậu sơn, tìm kỹ loại cỏ – lá hình răng cưa, rễ màu trắng, dù trời hạn hán đến mấy cũng khô héo . Tìm thấy thì đ.á.n.h dấu ngay bên cạnh."
Tiếp đó, nàng cầm chiếc búa gỗ thanh cương, với : "Đây là 'thính thủy chùy' (búa nước). Lát nữa khi gõ xuống đất, hãy lắng kỹ âm thanh. Nếu âm thanh 'kông kông' mà trầm đục, chứng tỏ lớp đất bên mềm xốp, thể nước, nếu 'bang bang' mà trong trẻo, thì bên là đá cứng, cần phí công."
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn - https://monkeydtruyen.com/bi-ruong-bo-ta-lap-thon-dao-nguyen-det-vai-lam-giau-giua-nui-hoang/chuong-66-truyen-thua-tim-kiem-nguon-nuoc-ngam.html.]
Ếch Ngồi Đáy Nồi
Nói xong, nàng dẫn chú Chu và vài thôn dân khỏe mạnh, đến những nơi mà đám thanh niên đ.á.n.h dấu thủy mạch thảo. Nàng cúi , gạt lớp đất nứt nẻ , quả nhiên thấy mấy bụi thủy mạch thảo đầy sức sống, rễ trắng xóa lan dài đất. Nàng cầm chiếc búa gỗ thanh cương, nhẹ nhàng gõ xuống chỗ cách bụi cỏ ba thước – “Đong... đong...”, tiếng vọng trầm đục khuếch đại qua chiếc bát sành, truyền rõ ràng đến tai mỗi .
“Chính là chỗ !” Lý Kiều Kiều sáng mắt lên, lập tức bảo dùng dây thừng gai khoanh một khu vực vuông vức một trượng, “Hãy đào từ đây , chú ý sự đổi của tầng đất, khi đào đến tầng đất vàng ẩm ướt thì đào chậm , đừng phá hỏng mạch nước.”
Các thôn dân như thể tìm chủ tâm cốt, nườm nượp cầm cuốc, xẻng, luân phiên đào bới. Khi mặt trời gay gắt nhất, Lý Kiều Kiều cho dựng một túp lều tranh bên hố, nấu nước t.h.u.ố.c thanh nhiệt, cho những đào giếng luân phiên nghỉ chân. Nàng tự canh giữ bên hố, thỉnh thoảng điều chỉnh hướng đào theo độ ẩm của đất đáy hố – khi đào sâu năm thước, tầng đất bắt đầu ẩm ướt, đào đến bảy thước, thành hố rỉ những giọt nước li ti.
“Khoan !” Lý Kiều Kiều đột nhiên hô dừng, nhảy xuống đáy hố, dùng tay bốc một nắm đất ẩm ướt, đưa lên mũi ngửi, vê vê, “Dưới là tầng đất cát, mạch nước tầng , hãy đổi sang dùng xẻng gỗ đào, đừng xáo trộn lớp cát, nếu nước sẽ đục.”
Mọi lời đổi công cụ, cẩn thận từng chút một đào xuống. Khi xẻng gỗ thứ ba chạm vật cứng, một dòng suối trong vắt đột nhiên trào từ khe cát, lúc đầu chỉ là một sợi nhỏ, nhanh tụ thành dòng nhỏ, chảy dọc theo thành hố.
“Có nước ! Thật sự nước !” Các thôn dân miệng hố bùng nổ một tràng reo hò, ngay cả chú Chu trầm nhất cũng kích động đến mức xoa tay lia lịa. Lý Kiều Kiều trèo khỏi đáy hố, dòng nước liên tục tuôn , lau mồ hôi mặt, lộ nụ chân thật đầu tiên nhiều ngày.
Đây chỉ là giếng đầu tiên. Ba ngày tiếp theo, Lý Kiều Kiều dẫn dân làng, theo chỉ dẫn trong truyền thừa, tìm thấy hai nguồn nước nữa ở phía tây làng và chân hậu sơn, đào thêm hai giếng. Ba giếng phân bố theo hình chữ "phẩm" (phẩm), chỉ thể tưới tiêu cho phần lớn ruộng đất, mà còn đảm bảo nước sinh hoạt hàng ngày cho xưởng và dân làng.
Khi thùng nước giếng đầu tiên theo kênh mương mới đào chảy ruộng, tưới mát những cây ngô đang khô héo, các thôn dân xổm bờ ruộng kìm nước mắt – trong tiếng đó, niềm may mắn sống sót tai ương, và hơn hết là lòng ơn đối với Lý Kiều Kiều.
Lý Kiều Kiều bên bờ kênh, dòng nước chảy qua, những cây ngô non dường như cũng thẳng lưng hơn. Nàng , đây mới chỉ là bước đầu tiên trong việc chống hạn, nhưng ít nhất, Đào Nguyên thôn vượt qua cửa ải nguy hiểm nhất. Còn trong thức hải của nàng, những thiên chương về “trữ nước”, “tiết kiệm nước” từ truyền thừa đang chờ nàng khám phá — trận hạn hán , là thử thách, là cơ hội để gốc rễ của Đào Nguyên thôn cắm sâu hơn.