Vào giữa tháng tư, Lý Kiều Kiều dựa theo hồi ức của nãi nãi và phương pháp “cổ pháp ủ tương” trong truyền thừa, bắt đầu chuẩn ủ tương. Nàng tiên đến trấn mua mười cân đậu nành mới thu hoạch – đây là nguyên liệu chính để ủ tương, trong truyền thừa “đậu nành cần mẩy đều mốc, là đậu mới trong năm, vị tương mới đậm đà”. Nàng núi hái sơn tra rừng, hoa tiêu rừng và lá tía tô, những thứ đều là phụ liệu để ủ tương, thể cho vị tương phong phú hơn.
“Nãi nãi, xem những nguyên liệu đủ ạ?” Lý Kiều Kiều trải đậu nành, sơn tra rừng và các nguyên liệu khác lên tấm đá trong sân, như thể đang khoe báu vật.
Lý thị ghé gần, nắm một nắm đậu nành, đặt trong tay cân nhắc: “Đậu nành , mẩy đều tròn trịa, là đậu mới. Sơn tra rừng cần bỏ hạt thái nhỏ, hoa tiêu rừng cần nghiền thành bột, lá tía tô cần phơi khô vò nát, như cho tương mới dậy mùi.”
Bước đầu tiên của việc ủ tương là ngâm đậu nành. Lý Kiều Kiều đổ đậu nành chậu gỗ lớn, thêm nước ấm, theo yêu cầu trong truyền thừa “ngâm đậu cần ngâm đủ mười hai canh giờ, đậu nở to như đầu ngón tay, bóp còn nhân cứng”. Nàng cứ cách hai canh giờ nước một , đảm bảo đậu nành ngâm đều.
Sau mười hai canh giờ, đậu nành quả nhiên nở mẩy, bóp bên trong còn nhân cứng. Lý Kiều Kiều vớt đậu nành , đổ vại sành lớn, thêm nước ngập đậu, đặt lên bếp lửa để nấu – trong truyền thừa “nấu đậu cần lửa lớn nấu một canh giờ, chuyển sang lửa nhỏ nấu nửa canh giờ, nấu cho đến khi đậu nhừ như bùn, mới thể trộn nguyên liệu”.
Khi nấu đậu nành, Lý Kiều Kiều cũng rảnh rỗi, nàng bỏ hạt sơn tra rừng thái nhỏ, hoa tiêu rừng đặt cối đá nghiền thành bột, lá tía tô phơi khô vò thành vụn, còn chuẩn năm cân muối hạt – trong truyền thừa “mười cân đậu nành cần năm cân muối, đủ muối thì tương dễ hỏng, vị càng tươi ngon”.
Một canh giờ rưỡi , đậu nành nấu nhừ, tỏa hương thơm nồng nàn của đậu. Lý Kiều Kiều nhấc vại sành xuống khỏi bếp, đặt đất để nguội, đó đổ đậu nành sàng tre, để ráo nước, trải tấm đá phơi cho đến khi nửa khô – đậu nành thể quá ướt, nếu khi lên men dễ mốc, cũng thể quá khô, nếu khi trộn nguyên liệu sẽ bám dính.
Đậu nành phơi xong đổ vại sành sạch (đây là vại sành mới nàng mua ở trấn, tốn ít tiền), thêm sơn tra rừng thái nhỏ, bột hoa tiêu rừng, vụn tía tô và muối hạt, dùng thìa gỗ sạch khuấy đều – trong truyền thừa “trộn nguyên liệu cần khuấy theo chiều kim đồng hồ trăm vòng, để nguyên liệu và đậu hòa quyện , vị tương mới đều”.
Lý Kiều Kiều nắm thìa gỗ, khuấy theo chiều kim đồng hồ, cánh tay nhanh chóng mỏi nhừ, trán lấm tấm mồ hôi, nhưng nàng dám dừng chút nào – đây là bước mấu chốt của việc ủ tương, nếu khuấy đều, vị tương sẽ khác. Nãi nãi một bên, giúp nàng lau mồ hôi, thỉnh thoảng nhắc nhở: “Khuấy chậm thôi, đừng để văng ngoài, trăm vòng đếm rõ ràng, thiếu cũng thừa.”
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn - https://monkeydtruyen.com/bi-ruong-bo-ta-lap-thon-dao-nguyen-det-vai-lam-giau-giua-nui-hoang/chuong-17-vai-tuong-dau-tien-thanh-cong-huong-thom-ngap-mieu.html.]
Khuấy xong, Lý Kiều Kiều dùng vải thô sạch đậy kín miệng vại sành, đó dùng đất sét vàng bịt kín – trong truyền thừa “niêm phong cần chặt chẽ, chống rò khí, chống côn trùng, miệng vại để một lỗ nhỏ để thoát khí, cho phép khí phát sinh từ quá trình lên men thoát ngoài”. Nàng còn theo lời nãi nãi, đặt vại sành hố đất cạnh bếp lửa – nơi nhiệt độ cao, thích hợp cho tương lên men.
Những ngày tiếp theo, Lý Kiều Kiều chăm sóc vại tương theo yêu cầu “tam phiên tam sái”: cứ mười ngày một , nàng mở vại sành, đeo găng tay vải thô sạch, đảo đều tương từ xuống một , để tương lên men đồng đều, khi đảo, nàng mang vại sành sân phơi nắng, phơi hai canh giờ mang về cạnh bếp lửa.
Lần đầu tiên đảo vại, tương còn loãng, mang vị đậu sống, thứ hai đảo vại, tương bắt đầu đặc , xuất hiện bọt khí li ti, tỏa mùi thơm chua nhẹ, thứ ba đảo vại, tương trở nên đặc sánh, màu nâu sẫm, trong vị chua thơm lẫn mùi tương, một chút mốc – trong truyền thừa “ tam phiên tam sái, tương mới thành hình, ủ thêm hai mươi ngày nữa, vị càng đậm đà”.
Ếch Ngồi Đáy Nồi
Vào sáng sớm ngày thứ hai mươi của quá trình lên men, Lý Kiều Kiều cố ý dậy sớm, cẩn thận mở vại sành – một luồng hương tương nồng nàn tức thì lan tỏa khắp nơi, nồng đượm hơn vị chua của giấm, kéo dài hơn hương rượu, ngay cả những dân làng ngang qua miếu hoang cũng ngửi thấy, lũ lượt thò đầu hỏi: “Kiều Kiều, con đang ủ thứ gì ? Thơm quá!”
Lý Kiều Kiều dùng chiếc muỗng sạch múc một muỗng tương, tương màu nâu sẫm, sánh đặc, trong đó thể thấy những mảnh sơn tra dại và lá tía tô vụn nhỏ. Nàng đưa đến bên miệng nãi nãi: “Nãi nãi, nếm thử xem, giống như tương do cố nội đích ủ ?”
Lý thị nếm một ngụm, mắt bà sáng bừng, nước mắt lập tức tuôn rơi: “Giống! Thật quá giống! là mùi vị ! Kiều Kiều nhà chúng thật sự học tài ủ tương của cố nội !”
Bà con hàng xóm vây xem cũng nhao nhao đòi nếm thử, Lý Kiều Kiều múc một ít tương chén sành thô, nếm xong đều tấm tắc khen ngợi: “Mùi tương thơm thật, còn ngon hơn cả tương ở tương phường trong trấn! Kiều Kiều, tương của bán ? Ta mua hai cân!”
“Bán chứ! Chờ đóng vò xong sẽ bán!” Lý Kiều Kiều vui vẻ , lòng tràn đầy cảm giác thành tựu – vò tương đầu tiên , chỉ là tâm huyết của nàng và nãi nãi, mà còn là sự kế thừa tài nghệ của cố nội. Nàng vò tương trong lu sành, như thể thấy cố nội đang mỉm gật đầu với nàng, và cũng thấy hy vọng nàng cùng nãi nãi dựa tài nghệ mà vững gót.