Tái Sinh Thành Khủng Long, Xem Tôi Thăng Cấp Như Thế Nào - Quyển 2: Blood Orchid - Chương 37
Cập nhật lúc: 2025-07-09 17:12:31
Lượt xem: 0
Mời Quý độc giả CLICK vào liên kết hoặc ảnh bên dưới
mở ứng dụng Shopee để tiếp tục đọc toàn bộ chương truyện!
https://s.shopee.vn/1B8nPQWmqZ
MonkeyD và đội ngũ Editor xin chân thành cảm ơn!
Sự khác biệt lớn nhất giữa kẻ săn mồi và con ở việc ăn ăn, mà là ở thế giới quan khác biệt.
Nếu một chỉ cần lộ mặt khiến mèo chó sợ đến ngất xỉu, thì sẽ tự hỏi liệu đến mức nào mà gặp cảnh "ngay cả khác loài cũng thể chịu nổi"?
đến lượt Assath, cô chỉ cảm thấy vô cùng hài lòng với tình trạng “một ánh cũng đủ dọa ngất con mồi”, thậm chí còn mong bản trông uy mãnh và hung dữ hơn, để chiếm ưu thế tuyệt đối trong việc săn bắt.
Còn về cái gọi là , đó chỉ là thứ yếu trong cuộc chiến sinh tồn.
Chọn lọc tự nhiên vô cùng khắc nghiệt, chỉ những sinh vật đủ mạnh để tồn tại mới tư cách nghĩ đến những điều ngoài chuyện cơm áo gạo tiền.
Assath tin chắc rằng, thế gian , chỉ loài mới quan tâm đến “ngoại hình và khuôn mặt” ngay cả khi bản thực lực— chỉ bận tâm đến vẻ ngoài của chính mà còn xét nét cả khác.
Ví dụ như bây giờ, thổ dân cô bé nhéo tỉnh mở mắt trông thấy Assath lập tức hoảng sợ ngất lịm nữa, khiến cô bé tức giận vả cho mấy cái tát.
Assath bận tâm đến chuyện nhỏ nhặt của con , chỉ tiện tay ném phần đuôi trăn còn sót sang một bên, nhấc phần của con mãng xà lên gặm lấy gặm để, ăn ngon lành.
Dưới ánh mắt chăm chú của một thổ dân và ba đứa trẻ, Assath chậm rãi ăn no, để phần thịt thừa. Sau đó, cô khẽ gầm một tiếng, quất chiếc đuôi dài lững thững tiến khu rừng.
Ý của cô rõ ràng: Các thể ăn.
Đây là quy tắc của chuỗi thức ăn—một con mồi ngon lành luôn kẻ săn mồi hưởng , đó mới dần dần phân chia xuống , cuối cùng là cuộc tranh giành của những kẻ yếu thế hơn.
Ví dụ như một đàn sư tử săn linh dương đầu bò, con đực và những kẻ chủ lực sẽ ăn , tiếp theo là sư tử con và những con thương. Sau khi chúng đều no nê, đến lượt linh cẩu và kền kền giành giật những mẩu thịt còn sót . Càng về , sự cạnh tranh càng khốc liệt.
Thế nên, việc Assath ăn xong cho phép con "lên bàn ăn" chính là một hành động thể hiện thiện chí, thậm chí là sự nhân nhượng lớn nhất của một kẻ săn mồi.
Theo cô, con mồi nhử, cô săn mãng xà. Xét theo mức độ đóng góp, họ ăn phần cô để thì gì sai? Hoàn hợp lý.
đối với những thổ dân, việc kẻ săn mồi ăn no mà tha xác , nghĩa là họ nhận món quà từ thiên nhiên.
Thế nên, những thổ dân lớn lên hoang dã khi kịp phản ứng liền hét toáng lên, lập tức gọi ba đứa trẻ đến nhặt thịt, còn đánh thức đồng đội của , bảo về bộ lạc báo tin và chữa trị vết thương.
Người thổ dân thương lá gan lớn, nhưng sức sống vô cùng mạnh mẽ. Chỉ cần khủng long xung quanh, thì dù răng nanh mãng xà cắn đến chằng chịt vết thương, m.á.u chảy đầm đìa, vẫn thể dậy chạy thẳng về bộ lạc, chỉ để vài dấu chân lấm tấm máu.
Không bao lâu , mười một thổ dân nữa đến nơi, nhanh chóng thu dọn xác trăn, bế ba đứa trẻ trở về bộ lạc. Sau đó là một quãng thời gian dài để hỏi han và xốc thế giới quan.
Người thương, trong lúc đắp thảo dược, phóng đại sự đáng sợ của Assath: “Arutam thực sự tồn tại! thấy ngài , đó là một con quái thú khổng lồ, giống bất kỳ loài dã thú nào chúng từng gặp, vì làn da ngài từ bạc quý giá!”
Anh chỉ một chiếc cốc bạc oxy hóa, thứ do ngoài để khi họ tiến rừng Amazon nhiều năm : “Chính là màu ! Ngài bằng bạc, cứng rắn hơn cả đá tảng.”
“Đầu ngài còn to hơn cả căn nhà tranh của chúng , mắt là hai viên đá mắt hổ, còn trong miệng là d.a.o xương. Suku đối thủ của ngài ! Ngài chỉ cần một cú đớp cắn đứt Suku, nuốt trọn phần thịt của nó! Mọi cũng thấy xác Suku , cột sống của nó gãy, đó là điều chúng thể !”
Anh đầy khí thế, cứ như từng thương.
Có lẽ đây là đầu tiên trở thành tâm điểm của bộ lạc, nên cảm xúc quá kích động,
Một lượng lớn adrenaline khiến rơi trạng thái hưng phấn cực độ,
Càng càng khoa trương,
Thậm chí còn rằng Arutam thể bay,
Ngài từ trời giáng xuống…
Một thổ dân khác và ba đứa trẻ vẻ đáng tin hơn một chút,
Họ chỉ thuật những gì tận mắt chứng kiến, suy đoán về những điều .
Shaman gì, bà nồi thịt trăn đang sôi sục, lượng ít ỏi của loài cỏ trăn—bà hiểu rõ rằng bộ lạc thực sự cần một sự giúp đỡ khác ngoài cỏ trăn.
Mùa sinh sản của Suku đến, mà Arutam giáng thế thời điểm , đó vốn dĩ chính là một điềm báo từ thần linh. Là một Shaman, bà nên vì bộ lạc của mà đánh cược một phen, vì chần chừ do dự.
Vì thế, bà lệnh cho dân làng chuẩn sắp xếp, bày lễ vật.
Để chào đón sự giáng lâm của Arutam, họ sẽ tổ chức một buổi tế lễ.
Trong truyền thuyết, Shaman là cầu nối giữa con và thần linh.
Những kẻ ngoại lai sống giữa rừng bê tông cốt thép bao giờ tin sức mạnh thần bí, nhưng những bản địa lớn lên giữa đất trời và rừng rậm coi đó là chân lý tối thượng.
Họ lạc hậu và ngu ?
Không. Chỉ là những kẻ ngoại lai từng trải nghiệm phép màu của Shaman mà thôi.
Assath cũng . Cô chỉ lang thang cho đỡ chán, vô tình bắt gặp nghi thức của thổ dân và tò mò xem.
Cô ngờ rằng họ hề thu hái săn bắn, cũng chuẩn thuốc men đề phòng nguy hiểm. Ngược , họ còn đổ sạch thịt trăn lên giá phơi, rắc thêm thứ bột xanh nhạt kỳ lạ bắt đầu những hành động khó hiểu.
Lúc họ đội mặt nạ dữ tợn, cài lông vũ sặc sỡ lên đầu, cô vẫn đoán họ định gì.
Mãi đến khi tất cả cùng đánh trống da trăn, lắc chuông buộc tay chân, miệng cất lên những thanh âm kỳ quái và xoay quanh Shaman, cô mới "ngộ" — lẽ họ đến mùa sinh sản và cần nhảy múa như chim chóc để thu hút bạn tình.
lạ , chẳng bạn tình nào xuất hiện. Ngược , chính cô cuốn theo bầu khí , vô thức tiến về phía họ.
Thật kỳ lạ, quá kỳ lạ…
Nếu cô "đôi mắt thứ hai" giúp thấu những thứ thường thấy, thì loài dường như cũng sở hữu một "ngôn ngữ" vượt qua rào cản ngôn từ.
Ngôn ngữ truyền tải qua giọng , mà qua nhịp điệu và âm luật, kéo vật hòa một.
Tiếng trống đồng điệu với nhịp tim rộn ràng. Chuông lục lạc hòa tiếng suối chảy. Lông vũ đuổi theo vết gió lướt qua rừng cây. Tiếng gọi của thổ dân ngân vang như tiếng hót của muôn loài, khi trầm khi bổng, hòa cùng lời tụng của Shaman, đan thành một làn sóng mang tần cố định.
Rung động, rung động!
Trong khoảnh khắc đó, trời đất dường như đang chung một giai điệu. Cây cối đong đưa, chim thú cất tiếng gọi, cá nhảy khỏi mặt nước, tất cả cùng nhảy múa cùng một dây đàn vô hình.
Mơ hồ, Assath cảm thấy hiểu "ngôn ngữ" của thổ dân. Họ đang triệu hồi cô, cầu xin sự hiện diện và bảo hộ của cô.
Thì là …
Từng động tác của họ đều chứa đựng trí tuệ. Ở một khía cạnh nào đó, họ thông minh hơn cả những nhà khoa học.
Nhà khoa học luôn cố gắng dùng cách của con để giao tiếp với động vật, mà nhận rằng, phương thức nhất chính là hòa thiên nhiên.
Shaman điều đó. Họ dùng âm thanh để hợp nhất với tự nhiên, hóa thành cơn gió, biến thành đám mây. Khi , thở của thiên nhiên cũng trở thành thở của họ. Lời họ sẽ biến thành "sóng", từng chút từng chút truyền đến tai cô, để cô thấy.
Giống như loài dơi nhận vật cản bằng sóng siêu âm.
Giống như cá voi giao tiếp với bằng tiếng hát.
Shaman dùng "ngôn ngữ của tự nhiên" để đối thoại với muôn loài.
Ngôn ngữ ai cũng hiểu . nó thực sự tồn tại.
Và Assath thấy.
Cô quyết định hồi đáp.
Không còn giấu trong im lặng, Assath cất từng bước vững vàng bước từ khu rừng. Mỗi đặt chân xuống, mặt nước đọng đều gợn lên từng vòng sóng nhỏ.
Áp lực của loài săn mồi đỉnh cao dần lan tỏa. Dù thấy cô, thổ dân hoảng hốt ngừng đánh trống—ngoại trừ Shaman.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn - https://monkeydtruyen.com/tai-sinh-thanh-khung-long-xem-toi-thang-cap-nhu-the-nao/quyen-2-blood-orchid-chuong-37.html.]
Assath bỏ lớp ngụy trang, cái đầu khổng lồ vươn khỏi những tán cây, đối diện với bộ tộc .
Quả nhiên, việc tận mắt thấy kẻ săn mồi luôn kích thích hơn là chỉ tưởng tượng.
Có hét lên.
Có vấp ngã.
Phần lớn lùi theo bản năng, chỉ còn thiếu chút nữa là đầu chạy trốn.
"Aru-tam!"
Một giọng non nớt cất lên.
Là cách gọi quen thuộc.
Là giọng quen thuộc.
Nghe đến thứ ba, ngay cả Assath cũng nhịn mà đưa mắt sang—quả nhiên vẫn là cô bé đó.
Lúc , Shaman mới dừng trống, cúi tiến lên. Bà cung kính quỳ gối giá phơi, mời Assath thưởng thức tế phẩm.
Assath sang đống thịt, đại khái hiểu ý của bà.
Nói cách khác, cả bộ tộc dày công bày nghi thức chỉ để… mời cô ăn một bữa?
So với đám nhà nghiên cứu , đám thổ dân thật đấy.
Nhất Tiếu Hồng Trần
Có điều, đống thịt trông quen mắt thế nhỉ?
Khoan , đây chẳng thịt trăn cô ăn dở lúc ?
Assath ăn đồ nấu chín, vì cô cần hấp thụ muối khoáng từ m.á.u tươi. lòng thành của thổ dân khiến cô nhớ đến Susan, hơn nữa cô cũng ngửi thấy độc trong thức ăn.
Vậy nên, cô cúi đầu, cuộn thịt và nuốt xuống.
Không ăn thì thôi, ăn một miếng giật .
Cô ngờ thịt trăn vị mặn, hơn nữa còn ngon!
Quả nhiên là "thức ăn lạ" . Assath ăn sạch chỗ thịt lớn, l.i.ế.m sạch nước sốt mặn, đó quét mắt một vòng.
Bọn họ ai cũng vẻ giống , chẳng phân biệt mặt mũi ai với ai. cô vẫn ghi nhớ mùi hương của từng , mới rời .
Sau đó, Assath đánh dấu khu định cư của thổ dân là lãnh địa của .
Thổ dân cũng ngu ngốc. Họ lập tức gom phân của cô , phơi khô, nghiền nát, gia công xử lý.
Mỗi săn, họ luôn mang theo một ít bên .
Cũng nhờ Assath, vì chất thải chủ yếu chứa xác thịt trăn, nên khi bản địa trộn lẫn nó với cỏ xua trăn sử dụng, hiệu quả đến mức khó tin, gần như trở thành một loại "cao xua trăn" tự nhiên.
Điểm bất lợi là nó mùi khá khó chịu, và còn một tác dụng phụ nữa—
Từ khi họ bắt đầu bôi chất thải của Arutam lên , vị "sứ giả của rừng" đó bao giờ xuất hiện trong các buổi tế lễ của họ nữa.
Là do họ sai điều gì ?
Assath hiểu rằng trong thế giới tự nhiên, phân của mỗi loài động vật đều là một tài nguyên quý giá, đóng vai trò nhỏ trong việc cải tạo môi trường.
Ví dụ như phân chim thường mang theo hạt giống cây cối, phân tê giác thể cung cấp nơi trú ẩn cho các loài động vật khác, phân voi là nguồn thức ăn của nhiều loài côn trùng và động vật nhỏ... Chúng giúp giàu đất đai, thúc đẩy cây cối phát triển, đánh dấu lãnh thổ, vô công dụng.
Assath thể ngờ rằng bản địa đào bới chất thải của lên trét lên tường, bôi lên đất, thậm chí còn bôi đầy lên cơ thể, còn nấu thức ăn ngay trong cái "hố phân", tha thiết mời cô cùng thưởng thức.
Thật quái gở, cô điên mới tìm đồ ăn trong "hố phân"! Nhờ họ mà cô cảm thấy lãnh địa của hôi thối đến mức thể chịu nổi nữa, nhất nên tìm một chỗ khác để kiếm ăn.
Không ngờ rằng với cái " hút rắc rối" của , kịp kiếm ăn, xa bao nhiêu, cô trông thấy một con thuyền nhỏ đang ngược dòng, dường như mục tiêu rõ ràng.
Cô nhận , lái thuyền là một đàn ông tóc vàng, da trắng, và trong khoang thuyền là những ngôn ngữ mà cô quen thuộc. Họ chỉ rõ điểm đến là một nhà máy bỏ hoang, chính là "kho hàng" thiêu rụi mà cô từng ghé qua vài ngày .
Con thuyền ngược dòng nhanh, khiến Assath thể dễ dàng bám theo.
Có lẽ dạo cô ăn trăn quá tay, đến mức suốt một quãng mà con trăn nào theo dõi chiếc thuyền, chỉ một con cá sấu nhô lên quấy phá chút ít. Nó giống như một gia vị thêm thắt, giúp đám thuyền chuyện để bàn tán bữa ăn. Mà trò chuyện một hồi, một thông tin lọt tai Assath.
Những ngoại lai là nhân viên của một công ty dược phẩm, trong đó một là quản lý cấp cao, một là nhà sinh vật học, còn bốn còn là "bảo vệ" của công ty. Họ đều kinh nghiệm sinh tồn phong phú trong rừng rậm, phái đến để thực hiện nhiệm vụ.
Nhà sinh vật học hỏi:
"Ông Hall ý gì ? Bảo chúng đến nhà máy cũ để tìm bộ xương của một con trăn, còn đưa cho cái lưới lớn thế … Trên đời thực sự con trăn to đến ? từng thấy."
Quản lý gật đầu:
"Đây là phần tối mật của nhiệm vụ, tiện tiết lộ. chỉ thể rằng bộ xương trăn cực kỳ lớn, lẽ c.h.ế.t năm, sáu năm ."
"Lâu ? Sao lúc nó mới c.h.ế.t đưa về ngay?" Nhà sinh vật học hỏi, lập tức phủ định: "Ồ , đúng là nên mang quá sớm. Nếu con trăn đó thực sự lớn như thì…"
Lời của cô khiến vị quản lý hứng thú, khỏi hỏi:
"Tại ?"
Nhà sinh vật học giải thích:
"Những con trăn đạt đến kích thước nhất định thường bạn đời cùng thể hình. Đây là điều giáo sư của dạy, dĩ nhiên, từng thấy tận mắt. bà chắc chắn, bởi vì bà từng chứng kiến một trường hợp trong rừng rậm Congo… chỉ tiếc là ảnh chụp."
Cô nhún vai, mấy thuyền đều bật .
Con thuyền sâu rừng rậm, đến khi tiếng khỉ kêu dần trở nên thê lương, đó rừng rơi tĩnh mịch—Nhà sinh vật học lập tức yêu cầu giảm tốc độ, giữ yên lặng, vẻ như họ sắp tiến một khu vực nguy hiểm.
Trước khi mặt trời lặn, con thuyền cập bến.
Giống như những gì Assath từng , sáu đó kiểm tra xác những con thuyền bỏ hoang trong khu vực, đó tiến "kho hàng", cuối cùng mò mẫm trong bóng tối để vớt lên bộ xương trăn hoá thạch theo thời gian.
Và ngay khoảnh khắc thấy nó, cả sáu đều tái mặt vì kinh hãi.
"Thật… thật sự con trăn lớn thế ? Lạy Chúa, , nó dài ít nhất 40 feet… , 45 feet!"
"Nó giết… là ai giết? Sao từng tin ?"
Tin tức là thứ quý giá, giá trị trao đổi, nên tin nào cũng công khai. Từ năm 1997, khi g.i.ế.c c.h.ế.t con trăn khổng lồ đầu tiên, công ty dược phẩm liên tục phong tỏa thông tin, chỉ giữ những bí mật cốt lõi trong tay .
Họ kéo bộ xương lên thuyền, quản lý thấy nhiệm vụ thành, rốt cuộc tiết lộ một chút thông tin:
"Trăn thể lớn đến thế là do nhiều yếu tố, nhưng yếu tố cốt lõi nhất là 'huyết lan'… Chúng sẽ chiết xuất một chất từ bộ xương , và cô sẽ nghiên cứu tác dụng của nó cơ thể sinh vật."
"Huyết lan?"
Người lẩm bẩm, còn Assath thì ghi nhớ trong lòng. Không hiểu , ký ức cô chợt hiện lên hình ảnh quê hương ban đầu của bản địa, nơi chiếc chum khắc hình bông hoa đỏ giữa hai cái miệng trăn…
Hoa đỏ… Huyết lan… Trăn ăn nó thể lớn hơn ?
Xem …
Dù môi trường học tập bốc mùi thế nào, cô vẫn học ngôn ngữ của bản địa thôi. Nếu , ngay cả khi loại "hoa giúp dã thú to lớn" mắt, cô cũng chắc kiếm mà ăn. Thật là phí phạm!