HỢP ĐỒNG NGOÀI GIỜ - CHƯƠNG 15 – HẠT MẦM MỚI
Cập nhật lúc: 2025-11-04 04:45:43
Lượt xem: 0
Mời Quý độc giả CLICK vào liên kết hoặc ảnh bên dưới
mở ứng dụng Shopee để tiếp tục đọc toàn bộ chương truyện!
https://s.shopee.vn/2LQDldxyH5
MonkeyD và đội ngũ Editor xin chân thành cảm ơn!
Sau vụ gặt, cánh đồng lẳng lặng như một tờ giấy gỡ khỏi ván in: phẳng, mịn, còn vương mùi mực của nắng. Rơm gom thành từng ụ tròn đầu bờ; lũ trẻ rủ nhảy qua nhảy , như thể mùa màng từng vắt cạn sức lớn. Trên con đường đất đỏ dẫn xóm, bánh xe bò lăn chậm, để những vệt tròn rỗng như những dấu câu nghỉ dài của làng.
An Nhiên thức dậy sớm hơn thường lệ. Thân thể quen nhịp đồng áng nên chỉ cần tiếng gà đầu xóm gọi sáng là mở mắt. Bà ngoại ở bậc cửa, hai bàn tay gầy bó đũa tre, ánh thong thả như giọt sương dính lá cau. Bữa sáng chỉ cơm nguội chan nước mắm tỏi ớt và dưa cải. Cô ăn thấy ngon lạ; lẽ vì bụng rỗng thì thứ đều hiền.
Sau bữa, cô quét sân. Trên nền gạch, lá bàng già rơi như phong thư gửi tên. Đang gom , cô tiếng chân trẻ con lẹp xẹp. Ba đứa bé hàng xóm nép ở cổng, tay giấu lưng, mắt tròn xoe. Đứa lớn nhất thò mẩu giấy nhăn , giọng lí nhí: “Cô… cô dùm tên con vô cái ?” Mẩu giấy là tờ đăng ký trại hè của xã. Ô trống “Họ tên” bỏ trắng, nét mực nguệch ngoạc như con cá trượt tay. Cô xuống bậc thềm, đỡ tờ giấy, hỏi tên từng đứa, phát âm rõ từng âm. Những cái tên bình dị – Hạnh, Đô, Khoa – bỗng hiện lên ngay hàng thẳng lối, đậm và sạch. Bọn nhỏ khì, cám ơn chạy biến, để cổng một vệt bùn lem như dấu vân tay của buổi sáng.
“Giá chi tụi nó như con,” bà ngoại khi cô mang chổi . Câu nhẹ như lông chim, nhưng rơi đúng chỗ mềm nhất trong cô. Cả buổi, ý nghĩ ở yên trong đầu như một hạt thóc khô trong lòng tay. Trưa nắng lên, cô đem hạt gieo: lôi từ tủ gỗ cũ một cuốn vở dày, bìa xanh sờn mép, lên hàng chữ đầu tiên: Lớp Buổi Tối.
Không cô từng nghĩ tới chuyện dạy chữ. sáng nay, một thứ chín, giống như trái ổi nắng vuốt qua đúng ngày, chạm là mềm. Cô đem chuyện với bà ngoại. Bà chỉ bảo: “Được chớ. Tối lớn còn bận, con nít rảnh. Cứ thắp đèn lên là thành lớp.”
Thế là chiều, cô quanh xóm, dừng ở những cổng tre, chào, chuyện vài câu. Mỗi nhà một câu chuyện: đứa con trai nghỉ học lâu , đứa bé gái chữ dính chữ rời, đứa rụt rè vì từng thầy mắng lớp. Cô hứa sẽ chúng giỏi lên, chỉ bảo: “Tụi con sẽ tên .” Người lớn gật, mắt ấm.
Hoàng hôn rơi xuống làng như một lớp giấy bóng kính màu mật ong. An Nhiên bày chiếu tre ở hiên nhà, đặt thêm mấy cái ghế gỗ bà ngoại giữ từ thuở nào. Cô lau bảng cũ Trọng mới mang qua – mặt bảng sần, mùi phấn trộn với mùi khói rơm, gợi thời cô còn bé. Trọng dừng ở cổng, tay xách một túi nhỏ. “Có mấy viên phấn trắng xin trường làng,” , giọng đều. “Cái bảng cũ nhưng hư.” Cô gật, cảm ơn. Anh , dựa cột ánh đèn dầu cô châm rung theo gió.
Bảy giờ, ba đứa đầu tiên đến, năm, bảy. Tụi nhỏ thành hai hàng, chân đung đưa, mặt mỏi nắng mà mắt thì sáng. Cô phát mỗi đứa một tờ giấy, dạy cách đặt bút, dạy chấm đầu câu như đặt hòn sỏi lên bờ ao. “Viết tên ,” cô . Hạnh H thành N, Khoa thành Koa, Đô gãy nét ngay chữ Đ đầu tiên. Cô quở, chỉ cầm tay từng đứa, dẫn nét chậm , ép đôi khi thật nhẹ. Nét chữ bắt đầu tròn, . Tiếng ê a nhỏ như tiếng giọt sương rơi lộc non.
Giữa buổi, gió đổi. Đèn dầu nhảy lên một ngọn, bóng chữ bảng rung theo. Cô chống tay lên mép bàn, giữ ngọn lửa bằng bàn tay che. Trong khoảnh khắc đó, cô nhận đang một chuyện hết sức giản dị: trông lửa cho khác rõ chữ. Có những việc qua tưởng nhỏ, nhưng nếu thiếu, cả lớp buổi tối sẽ chỉ còn là một tối ấm.
Trọng xa, tay bỏ túi quần, lũ trẻ nghiêng đầu . Nắng ngày kịp tắt hết tóc . Lúc tan lớp, đưa cho Hạnh nắm kẹo đậu, đỡ Đô cặp sách tuột quai. Anh lời nào với cô. Đến khi bọn nhỏ khuất, mới kéo tấm bạt lên cao hơn, gút sợi dây: “Gió bữa nay lạ.” Cô “ừ”. Hai chữ ngắn đủ một tiếng chào buổi tối.
Đêm đó, cô tiếng dế như một dải chữ đều đặn, đầu nghĩ về mấy ngón tay bé bé cố giữ đúng hàng. Chưa “lớp buổi tối” sẽ thành cái gì: một thói quen một kỷ niệm; nhưng hạt gieo, đất ẩm, trời mùa. Thế là đủ.
Ngày tiếp theo, lớp đông hơn. Có một bé trai chịu chiếu, cứ đường. Cô thằng bé sợ sai, bèn đưa nó mé hiên, vẽ một đường thẳng bằng phấn lên gạch, cho nó tập theo. “Đi thẳng , hãy thẳng,” cô bảo. Nó , răng sún, bước từ tốn như đang cây cầu chỉ một vệt.
Bà ngoại gần đó, tay thoăn thoắt róc mía, đưa cho mỗi đứa một khúc. Phấn trắng dính mép ly nước chè như lớp sương mỏng. Hồi lâu, gió mang mùi mía tươi trộn mùi phấn, cô bất giác thấy một hương vị mới của ký ức.
Cũng từ hôm đó, cô bắt đầu nghĩ xa hơn về lớp học . Không chỉ tên. Cô chúng địa chỉ nhà, những chữ bao phân, hiểu cân ký, đổi tiền lẻ lừa. Cô lấy quyển sổ riêng, phác mấy mục: “Đọc – Viết – Tính”, thêm một dòng nhỏ ở cuối: “Tự trọng”.
Tự trọng là to. Tự trọng là tên, chữ, , giá trị. Có chữ, ký tên ; , cân gạo; cả hai, thẳng trong cuộc mặc cả với đời. Cô trải qua một đời sống nơi dùng điều khoản để thẳng; ở đây, chữ và sẽ là điều khoản mới.
Buổi trưa, Trọng xách một bao ghế cũ về. “Người bỏ ngoài sân trường. Sửa ,” . Cô xắn tay áo, cùng nạy từng cái đinh han rỉ, mài những thanh gỗ xước, chằng những khớp lỏng. Nắng rải sân chấm chấm. Mồ hôi chảy qua thái dương, rơi xuống vết gỗ, bốc mùi nhựa non. Lâu cô mới công việc đòi hỏi hai bàn tay nhiều như , và cô thích cảm giác một thứ hư dần thành lành, bằng chỉnh sửa văn bản, mà bằng chạm gỗ thật, đinh thật.
Một đứa bé ghé qua xem, mắt tròn. “Cô ơi, ghế còn dùng hông?” – “Được chớ,” cô mỉm . “Đồ cũ vẫn êm nếu chỗ nào cần siết.” Nói xong, chính cô cũng giật . Câu giống câu Trọng từng : lưới cũ vẫn bắt cá. Hóa , lời tử tế chạy nhanh; nó từ tay sang tay khác, thoắt ẩn thoắt hiện, đến khi bám một vật thể bền hơn ngôn ngữ.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn - https://monkeydtruyen.com/hop-dong-ngoai-gio/chuong-15-hat-mam-moi.html.]
Cuối tuần, lớp vắng hơn vì mấy nhà chợ huyện. Cô dạy bọn nhỏ thư. “Viết cho ai cũng : cho má, cho nội, cho… ,” cô bảo. Những bức thư vụng về, chữ to nhỏ đều, nhưng tràn câu thật. Có đứa : “Nội ơi, con học chữ O. Chữ O giống cái trăng.” Có đứa : “Má hông la con nữa . Con hổng bỏ học .” Cô , thấy cổ họng khô. Chữ của con nít, như trái rơm non: bóp mạnh dễ nát, nhưng để nắng phơi sẽ thơm.
Cô lấy một phong bì cũ, bỏ mỗi bức thư , ghi tên nhận. Tối, cô mang mấy bức còn về cùng bà ngoại. Bà xong, chép miệng: “Tụi nhỏ thiệt thà. Thiệt thà là gốc. Có chữ để giữ thiệt thà lâu hơn.”
Sáng thứ Hai, cô xã hỏi mượn hội trường nhỏ mỗi tuần một buổi. Ông cán bộ trẻ cô, gật: “Cán bộ mượn lớp thiện nguyện hả?” – “Không cán bộ, chỉ là dạy chữ. nếu , tui xin thêm cái bảng mới cho tụi nhỏ đỡ mỏi mắt.” Ông , đồng ý. Cô về, nắng gắt, nhưng lòng mát. Không vì , mà vì ở đây, thứ đều qua cánh cửa tên “ với ”.
Tin lớp học lan nhanh. Buổi tối càng đông. Cô bắt đầu tổ chức “mỗi tuần một câu chuyện”: kể chuyện bà ngoại gặt ngày xưa, kể chuyện chiến tranh, kể chuyện một chú ở xóm từng xa mười năm về trồng dưa, kể câu chuyện về một đàn ông cần nhiều lời nhưng vá lưới khéo. Bọn nhỏ thích nhất là đoạn cuối, khi cô luôn hỏi: “Vì như ?” – “Vì siêng,” đứa đáp. – “Vì hổng bỏ cuộc,” đứa khác thêm. – “Vì thương,” thằng nhỏ răng sún tới lui.
Một chiều, Minh – đồng nghiệp cũ – xuất hiện ở cổng. Anh khựng giữa tiếng ê a. Vẻ mặt là thứ trộn lẫn giữa ngạc nhiên và tiếc. Chờ khi lớp tan, xuống hiên, mở chiếc cặp đen, đặt lên bàn một phong bì. “Thư mời. Công ty cô về,” . Giọng vẫn kiểu thành thị: nhanh, rõ, sợ mất thời gian. “Sếp mới tôn trọng chuyên môn. Không còn áp lực như . Họ thiếu cô, dự án khó tiếp. Cô ráng coi.”
Cô rót nước, đẩy ly về phía . Trên tường, cái bóng cô dựa dài như một dấu ngoặc. “ . Cảm ơn ,” cô . “ ở đây còn mấy đứa nhỏ xong tên.” Anh định thêm, bà ngoại, nuốt xuống. Lúc về, ở bậc thềm lâu. “Cô khác nhiều,” nhỏ. “Khác theo hướng .” – “ , chỉ nhẹ,” cô đáp. Anh gật, bỏ thư mời , lên xe, bụi đường nhỏ theo bánh.
Tối, cô mở phong bì, qua, gấp . Không hẳn cô từ chối vĩnh viễn. Thành phố là một khả thể, kẻ thù. bây giờ, mảnh đất đang nắm cổ tay cô bằng một lực dịu: lực của một công việc hình dạng, một tiếng mùi mía, một nắm kẹo đậu chia đúng lúc, một sợi dây bạt gút chặt cơn gió lạ.
Trong sổ tay, cô thêm một cột: “Lộ trình”. Dưới đó, vài mục nhỏ: mượn hội trường huyện một buổi mỗi tháng; tìm trẻ trong xã dùng điện thoại để clip, chụp hình lớp học; xin doanh nghiệp địa phương tài trợ sách vở; tạo sổ điểm riêng nhưng chấm theo thang mười – chỉ đ.á.n.h dấu tiến bộ bằng các chấm tròn nhỏ, mỗi tuần một chấm. Cô vẽ một biểu đồ tròn, mỗi cung là một đứa trẻ. Mỗi đứa sẽ đầy tròn theo từng tuần miệt mài.
Đêm về khuya, tiếng ch.ó sủa vọng xa như một điểm nhấn. Trước khi ngủ, cô sân. Trời lốm đốm . Mùi rơm khô phả lên gáy. Trong lòng cô, một mũi tên chỉ thẳng về phía : nơi cũ, xa bất tận, mà là sâu một lối nhỏ mới mở.
Ngày kế, cô đưa bọn nhỏ nghĩa trang liệt sĩ đầu làng quét lá. Cô bảo: “Học chữ để tên lên một việc tử tế.” Trên bia, những cái tên khắc sâu. Bọn trẻ chậm, như sợ đau đá. Khoa bỗng hỏi: “Cô, tụi con tên ở ?” – “Ở giấy tờ, ở hợp đồng, ở sổ đất, ở bức thư đầu tiên con cho thương,” cô đáp. “Và ở trí nhớ của khác nữa.” Hạnh nheo mắt: “Còn tên ở… bảng lớp buổi tối?” – “Có chớ,” cô . “Tên ở nhiều thì đó sống kỹ.”
Khi nắng bóng, cô và bọn trẻ về, qua nhà Trọng. Anh đang treo đôi lồng chim sáo hiên, che bằng tấm lá dư. Nhìn thấy tụi nhỏ, lấy từ túi áo mấy viên kẹo. “Học giỏi ?” – “Giỏi!” tụi nhỏ đồng thanh, tiếng vang, giòn. “Giỏi là . Giỏi giỏi hơn , giỏi là hơn chính hôm qua,” . Rồi như sợ nhiều, nhà, lấy cái thước gỗ đưa cho cô: “Cái thẳng lắm, cô dùng gạch dòng cho tụi nhỏ đỡ mỏi mắt.” Màu gỗ sẫm, cạnh thước mòn vì tay nắm. Cô đỡ, mỉm . Một cây thước, bỗng thành một thứ nghiêm trang: thước đo mới của đời sống cô.
Tháng trôi như mặt nước kênh ngày gió nồm – phẳng và nhịp riêng. Lớp buổi tối thêm mấy đứa nữa, bớt vài đứa vì nhà rẫy; nhưng cứ thế, mỗi tuần một đứa cái tên đầy đủ, thẳng , giấu răng sún. Bà con đến nhờ cô ghi dùm hóa đơn bán lúa, hỏi cách ghi “biên nhận” cho khỏi trả thiếu. Cô mẫu, dạy họ từng chữ, hiểu từng dòng. Mỗi họ ký xong, cô thấy trong mắt họ sáng lên thứ ánh sáng kín đáo: niềm tin .
Một chiều, xã mời cô chuyện ở nhà văn hóa: “Chia sẻ kỹ năng tối thiểu để bà con việc với thương lái.” Cô chuẩn bảng, ghi những gạch đầu dòng lớn: cân ngay tại nơi giao hàng; ghi khối lượng mặt; hẹn ngày trả; ký miệng; giữ một bản. Cô bục, giọng to, nhưng dứt và rõ. Trọng hàng cuối, tay xoa lên chiếc mũ vải, cô như một bờ ruộng mới đắp cao hơn.
Đêm , về nhà, cô mệt rũ mà tim nhẹ. Cô bước qua vạch: từ một chữa lành bằng lao động sang một gieo trật tự bằng tri thức. Không tri thức hàn lâm, mà là tri thức thể cân, đo, ký tên. Một thứ tri thức thở một dài và ngủ ngon hơn.
Trước khi khép sổ, cô dòng cuối: “Hạt nảy. Mùa tới, nghĩ cách che mưa.” Cô “mưa” sẽ đến hình dạng nào: giá xuống, thương lái ép, tin đồn. cô những thứ đầu tiên: một bảng gỗ, một cây thước, những nét chữ tròn đều, và một nhóm tin .
Ở hiên, gió đẩy nhẹ cánh cửa. Trên giàn, mướp trổ thêm hoa. An Nhiên tắt đèn. Bóng tối êm như mặt ruộng cấy xong – nghỉ để nảy mầm. Ở ngoài , đó trong mảnh làng im, những tiếng chân nhỏ chạy qua, để vệt đất khô mảnh. Mỗi vệt là một nét chữ sắp thành. Và trong lòng cô, một vệt khác cũng hiện: đường chân trời thấp nhưng chắc – nơi buổi tối chỉ để ngủ, mà còn để thắp lên một lớp học nhỏ, cho ở đây rằng tên và đáng gọi to.
— HẾT CHƯƠNG 15 —